Nội dung bài viết
LĂNG HOÀNG GIA Ở ĐÂU?
Di tích Lăng Hoàng Gia Tiền Giang tọa lạc tại Giồng Sơn Quy (Gò Rùa), ngày nay thuộc ấp Hoàng Gia, xã Long Hưng, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang. Lăng mộ là một công trình kiến trúc mang đậm phong phương pháp cung đình Huế, uy nghi giữa một vùng cây trái đồng bằng ven biển. Ngoài kiến trúc độc đáo, di tích còn chứa đựng bao câu chuyện ly kì.
Lăng Hoàng gia là nơi thờ tự và lăng mộ của dòng họ Phạm Đăng, trong đó có ông Phạm Đăng Hưng là ông ngoại Vua Tự Đức, thân sinh bà Thái hậu Từ Dụ (dân gian gọi Từ Dũ), vợ vua Thiệu Trị.

GIỚI THIỆU VỀ LĂNG HOÀNG GIA TIỀN GIANG
Lăng Hoàng Gia là nơi yên nghỉ, nơi thờ tự và lăng mộ của những người quá cố thuộc dòng họ Phạm Đăng nổi tiếng, Lăng Hoàng Gia còn được gọi là “Thích Lý” theo nghĩa là bà con nhà vua.
Lăng Hoàng Gia được xây dựng từ năm 1826, là nơi yên nghỉ của Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng (Ông ngoại vua Tự Đức và là thân sinh của Từ Dũ Thái Hậu – vợ Vua Thiệu Trị) – con người anh tú thuộc dòng họ Phạm Đăng vào thế kỉ 18 – 19.
Nơi đây đã có rất nhiều rất nhiều người nổi tiếng tới viếng: vua Bảo Đại và Nam Phương Hoàng Hậu.
Ngày 02 tháng 12 năm 1992, Bộ Văn hóa truyền thống – Thông tin (nay là Bộ văn hóa truyền thống, Thể thao và Du lịch công nhận di tích Lăng Hoàng Gia là di tích cấp Quốc gia theo quyết định số: 3959 QĐ/ BT.

KIẾN TRÚC LĂNG HOÀNG GIA TIỀN GIANG
Nhà thờ và mộ Phạm Đăng Hưng là một công trình kiến trúc nghệ thuật thời Nguyễn mang đậm phong phương pháp truyền thống dân tộc qua những mảng chạm khắc trên mộ và trang trí bên trong nhà thờ bằng những điển tích rút ra từ “tứ linh, tứ quý” theo quan niệm phong thủy của những người Á Đông. Toàn bộ khu lăng mộ tọa lạc trọn trong khuôn viên mát mẻ, có khá nhiều sứ đại cổ thụ, hoa lá cảnh vật bao bọc theo kiểu không gian nhà vườn xứ Huế.
Lăng không thật đồ sộ nhưng cũng không quá uy nghiêm như những lăng mộ của những quan đại thần khác. Nhiều người đến thăm lăng đều ngạc nhiên khi thấy kiến trúc của lăng phần nào giống kiến trúc của nhà ở. Chính điều này đã tạo cảm xúc gần gũi và ấm cúng.
Cổng vào được xây theo lối tam quan phương pháp điệu, trên mái lợp ngói lưu ly, đỉnh chạm trổ tượng mang hình ảnh “lý ngư vọng nguyệt” (cá chép trông trăng) thể hiện cho sự thanh cao của chủ nhân.
Nhà từ đường có mười trụ cột chính giữa, to nhất được thiết kế thành hai hàng song song như những đôi tay khổng lồ vươn lên chống đỡ toàn bộ lăng. Những đường hoành, rui, mè đều được thiết kế vô cùng sắc sảo, độc đáo, vững chắc bởi những loại gỗ quý được vận chuyển từ cố đô Huế vào. Có lẽ vì thế mà theo thời gian những cây cột ngày càng trở nên bóng xinh và cổ kính hơn.

Điểm đặc thù nhất của lăng có lẽ là việc sử dụng tuyệt đối vật liệu gỗ để xây dựng, không thể nào tìm ra được một cây đinh nào trong việc gắn kết những những thanh gỗ, kèo, cột ở đây. Tất cả đều được đục mộng tra vào nhau một phương pháp tinh xảo đến tuyệt vời. Người xem khâm phục biết bao bàn tay và nghệ thuật xây dựng cũng như kiến trúc của những nghệ nhân xưa.
Trong nhà thờ có đặt nhiều biển đại tự để thờ: Gian chính giữa thờ Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng; gian tả thờ ông Phạm Đăng Long là cha của Phạm Đăng Hưng; gian tả ngoài cùng thờ ông Phạm Đăng Tiên (cố); gian hữu thờ ông Phạm Đăng Dinh (nội); hai cuối bên hữu thờ ông Phạm Đăng Khoa (sơ).
Mộ Phạm Đăng Hưng táng trên gò cao có hình dáng mai rùa. Mộ không xây theo kiểu “ngưu phanh, mã phục” mà được xây theo kiểu dáng “đỉnh trụ” hình bát giác, trông vừa như chiếc nón lá vừa như búp sen.Mặt sau mộ, xây bình phong hình bán nguyệt, trên có chạm 4 con rồng, dưới có 5 con kỳ lân. “Ngũ đại thành xương – Tường lân ống hiện” (Năm đời danh giá tốt xinh – Điềm lành kỳ lân hiện ra).
Vòng quanh mộ ông Phạm Đăng Hưng có một số phù điêu trang trí như búp sen, cá hóa long… lại mang phong phương pháp điêu khắc phương Tây. Những bức phù điêu trang trí trên mộ được xây dựng thêm vào thời vua Khải Định.Có lẽ ông Vua Khải Định đã có rất nhiều một “tư vấn viên” người phương Tây nào chăng?
Cùng tọa lạc trên khuôn viên Lăng còn tồn tại hệ thống mộ dòng họ Phạm Đăng được chôn theo một trục dài, toàn bộ đều làm bằng hồ ô dước, bao bọc chung quanh bằng một lớp tường dày và cao 90cm, những ngôi mộ tổ bố cục đơn giản theo hình vuông hoặc chử nhật).

THAM QUAN LĂNG HOÀNG GIA TIỀN GIANG CÓ GÌ?
GIẾNG NGỌC Ở LĂNG HOÀNG GIA TIỀN GIANG
Vào cuối thế kỷ thứ 16 ông Phạm Đăng Long (cha ông Phạm Đăng Hưng) theo cha từ Quảng Ngãi vào vùng Gò Công, là người giỏi Nho học, tinh thông phong thủy, địa lý của Lão học, đi nhiều nơi tìm thế đất tốt để định cư, mong con cháu phát tích. Lúc ông đến Gò Rùa (Sơn Qui), thấy thế đất rất là đẹp nhưng toàn vùng Gò Công lúc bấy giờ không có nơi đâu đào được giếng có nước ngọt. Sau đó ông phát hiện ra mạch nước ngầm ở Gò Sơn Quy nên quy tập mồ mả 3 đời về đây và xây nhà ở gò đất này.
Hiện nay, tại lăng Hoàng Gia, phía sau nhà thờ, nơi nền nhà xưa vẫn còn cái giếng cổ, nước trong vắt và ngọt lịm. Đến nay vẫn chưa ai xác định đúng mực giếng nước này được đào từ năm nào, chỉ biết rằng nó được cho là báo hiệu của một điềm lành, gắn liền với dòng họ hoàng tộc danh tiếng Phạm Đăng.
Có điều lạ là đến mùa khô, những giếng khác kể cả ao làng sâu 10m đều cạn hết, riêng giếng này không sâu nhưng ngay mạch nước nên nước lúc nào cũng có. Ngày xưa, người dân ở xã Long Hưng đều dùng nhờ giếng nước này. Điều lạ nữa là khi Hoàng Thái hậu Từ Dụ được sinh ra, nước ở giếng này càng ngọt hơn.

LY KỲ TẤM BIA NGỰ BAN LĂNG HOÀNG GIA TIỀN GIANG
Đến thăm mộ ông Phạm Đăng Hưng, từ ngoài bước vào, hành khách sẽ phát hiện bên trái có một nhà bia. Dưới là tấm bia bằng đá trắng Quảng Nam, đã mòn theo thời gian, nhưng thật kỳ lạ: phía trên có hình cây thánh giá màu đen, dưới là dòng chữ Pháp ghi “Đây là nơi an nghỉ của Trung úy Barbé”. Nhìn sâu vào trong là một bài văn bia chi chít chữ Hán?
Bia đá này do Phan Thanh Giản và Trương Quốc Dụng soạn vào năm Tự Đức thứ 10 (1857) nhằm ca ngợi công đức của Đức Quốc công Phạm Đăng Hưng. Vua Tự Đức sai chở bằng thuyền từ Huế vô Gò Công. Nhưng cái bia đá mất tích một phương pháp bí hiểm. Đến lúc trùng tu lăng Hoàng gia, năm 1899, vua Thành Thái cho dựng nhà bia ở bên phải (từ ngoài nhìn vào) bằng đá hoa cương. Nội dung tấm bia này giống y tấm bia Tự Đức ban cho ông ngoại.
Chuyện kể rằng, lúc giải tỏa nghĩa địa Mạc Đĩnh Chi (quận 1- TP Hồ Chí Minh) để xây dựng Công viên Lê Văn Tám (khoảng 1983- 1986), người ta thấy còn sót lại một tấm bia đá bỏ chỏng chơ. Có người phát hiện hàng chữ Nho sau hàng chữ Pháp mới báo với Bảo tàng Thành phố. Khi những nhà nghiên giúp giám định mới té ngửa là tấm bia ấy là của vua Tự Đức ban tặng cho ông ngoại Phạm Đăng Hưng. Trong tác phẩm “Scènes de la vie Annamite” (NXB P.Ollendorff Paris 1884) của 2 tác giả Le Vardier và De Maubryan có kể lại chuyện tình éo le của viên Trung úy Barbé với cô gái Bến Nghé tên Thị Ba, người của nghĩa quân Trương Định.

Cô gái hẹn Trung úy Barbé ở đồn chùa Khải Tường (nay là Bảo tàng Cách thức mạng) đến đồn chùa Ô Ma (Pagode des Mares – Thị Nghè) vào đêm 7/12/1860. Trên đường đi, Barbé đã bị nghĩa quân Trương Định phục kích đột nhiên giết chết. Câu chuyện tình này đời nay được tái hiện trong vở cải lương nổi tiếng ở Nam Bộ mang tên “Nàng Hai Bến Nghé” với diễn xuất tài năng của nữ nghệ sĩ Mỹ Châu.
Liên kết những sự kiện, chính Barbé cướp tấm bia vào năm 1858 về đồn và 2 năm sau y chết, người ta lấy tấm bia ấy làm bia mộ cho y. Đến khi nghĩa trang giải tỏa mới phát hiện ra và năm 1998, Bảo tàng TP Hồ Chí Minh mới tặng lại Khu di tích Lăng Hoàng gia. Đúng 140 năm sau tấm bia mới được đặt đúng vị trí của nó. Nhìn tấm bia hàng chữ Pháp trên nền chữ Hán, hành khách ai cũng thắc mắc. Ngờ đâu, trong đó là một chuyện sử ly kỳ như tiểu thuyết.
Đối diện tấm bia này, phía bên tay phải, lại có một tấm bia khác, bằng đá hoa cương, do Vua Thành Thái ngự ban vào năm 1899 sau khi tấm bia trước tiên bị chiếm đoạt, nội dung không khác nhau là mấy.Có thể nói đây là một quần thể kiến trúc xưa và lạ, bởi đây là nơi yên nghỉ của dòng họ làm quan nhiều đời và là họ ngoại của vua Nguyễn. Khách du lịch Tiền Giang, đến đây có thể tìm thấy được những di tích của một giai đoạn lịch sử đã qua ẩn hiện nơi nào đó trong từng phần của khu lăng mộ.
ĐỨC QUỐC CÔNG PHẠM ĐĂNG HƯNG LĂNG HOÀNG GIA TIỀN GIANG
Phạm Đăng Hưng là con thứ ba của ông Phạm Đăng Long, sinh ra tại Gò Sơn Quy vào năm 1764. Ông là người thông minh, văn võ song toàn đã từng làm quan Thượng thư dưới hai triều vua Gia Long và Minh Mạng. Năm 1784, lúc 20 tuổi, ông thi đỗ Tam trường, được triều đình bổ làm Lễ sinh ở Phủ, sau đó được thăng Lại bộ Tham tri. Đến năm 1824 được sắc phong Lễ bộ Thượng thư, năm 1825 ông được phó thác giữ kinh thành Huế. Nhân dân thường gọi là Phạm Đăng Hưng là ông “Ba Bị” vì lúc làm “Điền tuấn quan” đi đâu ông cũng mang theo ba bị hạt ngũ cốc để phân phát cho nông dân nghèo những khi thiên tai, hạn hán, bão lụt.
Vua Minh Mạng rất khâm phục tài đức của Phạm Đăng Hưng nên đã kết thành thông gia hai lần với ông: gả công chúa cho Phạm Đăng Thuật (thiếu niên Phạm Đăng Hưng) và phong tước Phò mã đô úy; cho thái tử Miên Tông (vua Thiệu Trị) kết hôn với con gái ông Phạm Đăng Hưng là Phạm Thị Hằng (bà Từ Dũ).

Năm 1825, Phạm Đăng Hưng bị bệnh mất tại Huế, được vua Minh Mạng thăng hàm “Vinh lộc đại phu, trụ quốc hiệp biên, đại học sĩ, thụy trung nhã” và đưa về an táng tại Sơn Quy.Một năm sau khi Phạm Đăng Hưng mất tức năm 1826, triều đình nhà Nguyễn cho xây dựng nhà thờ và lăng mộ ngay trên nền nhà cũ của dòng họ Phạm Đăng. Khu lăng mô được xây theo kiến trúc phong thuỷ dành cho lăng tẩm vua quan lúc bấy giờ.
Năm 1849, khi vua Tự Đức truy phong Phạm Đăng Hưng lên tước Đức Quốc Công đã cho trùng tu, mở rộng nhà thờ, xây thêm tam cấp, cổng tam quan, ban thần vị theo nghi thức cung đình.Vào năm 1888, vua Thành Thái lên ngôi, sẵn sàng vào viếng lăng nên cho trùng tu. Đến năm Khải Định 1921, trùng tu một lần nữa mang nét Á – Âu kết hợp và được lưu giữ cho đến ngày nay.
CLIP REVIEW LĂNG HOÀNG GIA TIỀN GIANG
Bản đồ :
Nguồn : Blog Review Du Lịch: https://bietthungoctrai.vn/ Di tích Lăng mộ Hoàng Gia ở Gò Công tỉnh Tiền Giang